Những cuộn kinh linh ứng
Ngày xưa, một nông dân nghèo có đến sáu người con. Mảnh ruộng nhỏ nhoi của gia đình, mà sau này sẽ về tay người con cả TaRô(TaRô), thật khó mà nuôi nổi cả một gia đình đông đúc. Cha mẹ bèn quyết định cho đứa con thứ hai đi tu, cậu ta là DiRô (Djiro), mười tuổi. Dù cậu ta không thích đi nữa, thì gia đình cũng bớt đi một miếng ăn. Họ biết nhà sư trụ trì tại một ngôi chùa nhỏ nằm ở ngoài ngôi làng bên cạnh, nhà sư này bằng lòng nhận DiRô vào tu học với mình.
Ngôi chùa nhỏ, nghèo nhất trong vùng, và nhà sư khả kính ở đây sống không được sung túc gì lắm. Thế nhưng ông muốn giúp bố mẹ của DiRô, mặt khác, ông ta cũng đã già rồi, ông cần có người giúp đỡ việc lặt vặt trong chùa, đó là chưa kể ông phải nghĩ dần đến việc tìm người thay ông để trụ trì ngôi chùa này.
Thế là một hôm, chú bé DiRô cạo đầu, mặc áo chùng đen, vào chùa làm môn sinh. Ngôi nhà nhỏ xây bằng gỗ nằm tách ra khỏi làng một chút, gần cái hồ ở bìa rừng, muốn đến chùa, phải đi trên một con đường băng qua ruộng lúa chạy theo các đường đê trong ruộng. Ngôi chùa xưa cũ, mưa gió thường xuyên đã làm bạc màu các bức vách và gần như xóa hết hàng chữ trên cổng. DiRô rất thích cảnh chùa, nhưng hấp dẫn chú ta nhất là cánh rừng. Hễ rảnh việc được giây phút nào là chú chạy vào rừng, hái hoa thơm hay nằm lên trên cỏ, nhàn nhã đưa mắt nhìn trời qua đám cành cây rậm lá.
Vị sư khả kính là người rất mẫu mực, ông không bắt DiRô phải làm việc nhiều. Công việc của chú là đi lượm củi, xách nước, lau quét chùa, lau bụi bặm các tượng gỗ trong thánh thất và lau kinh điển trong thư phòng, rồi thỉnh thoảng giúp việc dưới bếp. Việc nghiêm trọng nhất là học tập. Không những DiRô thấy việc tập đọc tập viết là khó khăn mà việc học nhớ kinh điển cũng thật khó hiểu, mặc dù chú đã có thiện tâm, là điều rất khó cho chú, mà chú lại còn không thích việc học hành. Khi nhà sư giảng kinh hay muốn chú học thuộc kinh, thì chú không chịu nghe, nhưng khi ngồi học một mình, chú lại thích chạy vào rừng.
Nhà sư đã khuyên giải, la mắng, nhưng chẳng ăn thua gì. Cứ cầm cuốn kinh lên tay là DiRô lại nhìn cây cối ở bên ngoài, cây cối như gọi chú ra, chú cảm thấy cây cối như tỏa mùi thơm quyến rũ, chú lắng nghe chim chóc ca hót. Thế là đi đời việc học, chỉ đợi lúc thuận tiện là chú chuồn ra ngoài ngay.
Cả một mùa hè trôi qua như thế, nhà sư mất hết kiên nhẫn. Nhiều lần DiRô để quyển kinh trên cỏ, rồi thay vì học, chú chạy vào rừng.
Nhà sư chán nản thấy rằng không bao giờ DiRô thuộc nổi một câu kinh, cho nên nhân ngày đại lễ “cầu phúc” sắp đến, ông gọi chú bé lại và nói:
– Này con, ta rất buồn phải nói cho con rõ điều này: chắc con sẽ không trở thành nhà
sư tốt được đâu. Vì một nhà sư mà không biết lễ nghĩa và không thuộc kinh điển thì không ra gì hết, không giúp gì được cho người đời hết, mà chỉ là gánh nặng cho đạo hữu thôi. Nên ta định trả con về lại cho cha mẹ con, mặc dù làm thế ta rất đau lòng. Vậy con hãy trở về với gia đình đi, kẻo mất thì giờ.
Quyết định của nhà sư như sét đánh ngang tai DiRô, chú ta chảy nước mắt. Nếu không có việc học chán ngấy này, thì chắc chú rất muốn trở thành tu sĩ.
Nhà sư thấy chú bé bị xúc động mạnh cũng thương tình. Ông bèn lấy trong cái rương sơn mài ra bốn cuộn giấy, đưa cho DiRô và nói:
Ta không biết làm gì được cho con, nhưng để con hiểu là ta không giận, ta cho con bốn cuộn giấy này. Trên mỗi cuộn có vẽ hình ngôi chùa này và một đoạn kinh. Đấy là lời Phật dạy, những cuộn kinh sẽ giúp con khi lo buồn thất vọng. Hãy giữ những cuộn kinh này, và bây giờ thì con hãy đi đi.
DiRô không dám cãi lời nhà sư. Chú lấy bốn cuộn kinh bỏ vào dưới áo choàng, cúi người cám ơn nhà sư, rồi nước mắt dầm dề, chú bước ra cửa, lấy đôi dép rơm đi về. Lòng quá giao động, DiRô nghĩ: “Cha mẹ sẽ nói gì khi thình lình thấy mình quay về như thế này nhỉ?” – nghĩ thế, nước mắt chú lại tuôn ra như mưa.
Nhưng, vừa đi được vài bước, nghe tiếng lá cây xào xạc, ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt của hoa rừng, chú lại quên hết sầu muộn trong lòng. Rồi, thay vì đi về nhà, chú chạy vào rừng thân yêu. Vì bây giờ chú có vô số thì giờ để chơi, được mặc sức vào sâu trong rừng, đến những nơi mà trước đây chú chưa bao giờ để chân tới.
DiRô đuổi bướm thơm, rồi nấp sau bụi cây để nhìn một con thằn lằn nằm phơi nắng trên tảng đá, chú lắng tai nghe tiếng chim hót trên cành. Khi cảm thấy đã đến lúc phải tìm đường ra khỏi rừng, vì chú nghĩ chắc trời sắp trưa, thì bỗng nhiên trời tối sầm một cách thật lạ lùng, như thể sắp có giông bão vậy. Tất cả mọi âm thanh quanh chú đột nhiên im lặng hết, sự thay đổi đột ngột này làm cho chú run sợ.
Chú nhìn quanh và khó khăn lắm mới nhận ra được một khoảng trống trong rừng. Chú tự nhủ:
Chắc trời đã tối rồi? Ôi, ước gì ta gặp được người nào ở đằng kia.
Bỗng chú thấy ở bên kia khoảng trống có một bà già nhỏ nhắn, bà ta đang khập khiễng đi về phía chú. Chắc là bà đã già lắm rồi vì lưng bà khòm quá thấp. Trên đầu, bà đội cái mũ vải rộng, cái váy vá chằng vá đụp, quanh lưng thắt sợi dây lưng nhỏ xíu.
Bà già nhìn chú, toét miệng cười, hai hàm răng sún hết, bà nói:
Gặp được cháu ở đây thật may cho ta quá! Trông cái đầu trọc và cái áo chùng đen cháu mặc, ta biết ngay cháu là một chú tiểu. Trước sau gì rồi cháu cũng thành nhà sư. Ta thì già rồi, chân cẳng yếu, chắc không đi nổi ra tận chùa của nhà sư khả kính ở ngoài làng được. Hôm nay là ngày giỗ đầu của chồng ta, ta muốn nhờ nhà sư khả kính tụng kinh cầu nguyện cho vong linh ông ấy được siêu thoát. Nhưng bây giờ gặp được cháu ở đây, ta nhờ cháu đến tụng kinh cầu nguyện cho vong linh của ông ấy trước bàn thờ tại nhà ta. Chắc cháu không từ chối lời yêu cầu của một bà già khốn khổ như ta chứ.
DiRô phân vân không biết xứ sự ra sao. Chú rất sung sướng thoát khỏi cảnh một mình trơ trọi trong rừng âm u tối tăm như thế này. Nhưng còn việc tụng kinh cầu nguyện thì sao? Chú có nên thưa thật là mình không biết tụng kinh cầu nguyện không? Không thể nói cho bà già hay là chú không biết tụng kinh. Vì nếu có thú thật thì chắc bà ta sẽ nghĩ là chú thoái thác thôi. Cho nên chú bằng lòng chấp nhận đi theo bà qua khoảng trống trong rừng, đến một cái chòi nhỏ, mà lạ lùng thay là mới trước đây, chú không thấy gì cả. Cái chòi rất nhỏ đến nỗi hai người đi vào là đã thấy chật rồi. Chú thấy trong một góc nhà, có tấm ván đóng vào vách dùng làm bàn thờ, và trong góc kia là bếp lửa của chủ nhà. DiRô quì xuống trước bàn thờ, chú nhớ lại tất cả những gì chú còn nhớ trong các buổi lễ cầu nguyện trước đây ở chùa. Chú tụng kinh cầu nguyện cho vong hồn của người chết, rồi khó khăn lắm chú mới tụng kinh được, chữ được chữ mất. Chú toát mồ hôi hột và mặt mày đỏ gay, nhưng bà già thì lại lắng tai nghe rất chăm chú. Trông bà có vẻ rất hài lòng về buổi cầu nguyện này. Khi DiRô tụng kinh cầu nguyện xong, bà già cúi đầu, nói:
Cậu thật tốt. Tôi thành thật cám ơn cậu. Chắc ông chồng của tôi rất mãn nguyện vì cảm thấy không bị quên lãng. Nhưng bây giờ thì trời đã tối mà đường về làng thì xa, cậu sẽ dễ bị lạc lắm. Hãy ngủ lại đêm ở đây đi. Tôi chẳng có gì để mời cậu ngoài cháo lúa mạch, nhưng tôi nghĩ cậu sẽ thích cho mà xem.
DiRô quá đói cho nên chú ăn cháo lúa mạch thấy ngon thật. Ăn xong bà già dọn chỗ ngủ trên nền nhà- chỗ ngủ vừa đủ cho hai người- DiRô vừa nằm xuống là ngủ liền. Nhưng chú ngủ không ngon giấc, có lẽ vì chú ăn cháo quá nhiều, cũng có lẽ vì cái chòi thiếu không khí, cho nên dù cố gắng, nhưng chú cứ trăn qua trở lại hoài, thức lại ngủ, ngủ rồi lại thức, cho đến khi bỗng thình lình chú hoàn toàn tỉnh giấc. Chú quay người, bàn tay chạm phải chân một con thú. Rõ ràng là chú chạm phải đám lông và những cái vuốt. Nhờ ánh sáng lờ mờ của bếp lửa chiếu ra, chú thấy rõ cái chân, đúng là cái chân của bà già.
DiRô sợ đến nỗi tê liệt cả người, vì chú nghĩ chắc bà già không phải là người, mà có lẽ là một con cáo hay một con lửng đã tìm cách kéo chú vào hang để ăn thịt. Chú nghĩ phải tìm cách trốn thoát cho nhanh thôi. Chú cẩn thận, từ từ ngồi dậy. Nhưng khi chú định bước qua người bà già, bỗng bà thức dậy hỏi chú:
Này cháu, cháu đi đâu trong đêm tối thế này?
Thưa bà, cháu cần ra ngoài, -DiRô đáp, giọng rất tỉnh táo
Ngoài trời tối tăm. Cháu dễ bị lạc hay rơi xuống vực sâu, mà quanh nhà thì có rất nhiều vực. Để ta cột cháu vào sợi dây cho cháu khỏi lạc.
Bà già cột một sợi dây vào người DiRô rồi để chú ra ngoài. Khi DiRô vừa ra ngoài
khoảng trống, bà già liền kéo sợi dây và nói lớn:
Cháu đừng ở lâu nhé!
Dạ, dạ, cháu sẽ vào ngay, -DiRô đáp, vừa lo sợ nghĩ đến cách để đối phó với tình huống này. Bỗng chú nhớ đến những cuộn kinh mà nhà sư đã cho. Có lẽ những cuộn kinh này có thể giúp chú thoát khỏi cảnh nguy hiểm trước mắt.
-Trong lúc đó bà già lại kéo sợi dây và gọi chú.
Cháu vào đây, thưa bà, -DiRô đáp, vừa lần mở sợi dây ra và buộc sợi dây vào một cuộn kinh, rồi ba chân bốn cẳng chạy.
Chú chạy chưa xa thì bà già lại kéo sợi dây và gọi tiếp. Huyền diệu làm sao, cuộn kinh có sức nặng trì lại, như thể chính DiRô đang bị buộc vào sợi dây, và bắt chước giọng chú trả lời: “Cháu vào đây, thưa bà?” -DiRô mừng thầm, chú chạy tiếp.
Cứ mỗi lần bà già giật sợi dây thì lại nghe DiRô đáp: “Cháu vào đây, thưa bà!”, nghe mãi một hồi lâu mà vẫn không thấy chú bé vào bà già nổi giận. Bà bèn ngồi dậy ra xem thử chú bé làm gì ở ngoài mà lâu thế.
Khi thấy chú bé đã biến mất, bà già tức giận dẫm nát cuộn giấy rồi đánh hơi dưới đất để xem chú đi hướng nào. Tìm được phương hướng rồi, bà ta liền đuổi theo chú bé, bà ta chạy rất nhanh như luồng gió thổi mạnh qua rừng.
Trong đêm tối, DiRô chạy chưa được bao xa thì bỗng chú nghe phía sau có tiếng thở và tiếng gầm gừ thật ghê rợn. Chú quay lại, và hoảng hồn gần muốn xỉu. Phía sau chú, không phải là bà già đi khập khiễng, mà là mụ quỷ dạ xoa (YaMamba), mụ quỷ ác độc khét tiếng trong rừng. Lỗ mũi với hai cái hốc to khủng khiếp, hai con mắt đầy gân máu nẩy lửa long sòng sọc như hai ngọn đèn, còn cái mõm thì rất ghê gớm, cái lưỡi dài thè ra ngoài, đỏ rực dài đến tận thắt lưng, mái tóc xám bay phất phơ trong gió như cái bờm ngựa. Hai cánh tay xương xẩu dài thòng, móng vuốt trông rất ghê tởm, còn hai bàn chân đầy lông lá, như DiRô đã thấy ở trong lều, nện xuống đất thình thịch. DiRô chạy một bước thì quỷ dạ xoa đã nhảy hai bước khổng lồ, cho nên chẳng mấy chốc mà quỷ đến gần chú bé, nó vươn hai bàn tay đầy vuốt nhọn ra. DiRô quá sợ, bèn lấy cuộn kinh thứ hai và ném xuống dưới chân dạ xoa.
Lập tức một con sông hiện ra giữa DiRô và Dạ xoa, dòng sông nổi sóng cuồn cuộn ngăn đôi họ ra. DiRô thở phào, thừa cơ hội này, vội vàng chạy ra khỏi rừng, và trời cũng bắt đầu sáng, chú tiếp tục chạy vào con đường băng qua ruộng lúa.
Khi Dạ xoa thấy mình bị dòng sông dậy sóng ngăn lại bên này, bên kia bờ DiRô đang cố sức chạy, mụ ta bèn hét lên một cách giận dữ và giậm chân xuống đất thình thịch. Nhưng rồi mụ ta bình tĩnh lại ngay, mụ xắn cao hai tay áo, cúi người xuống thò mõm uống nước sông. Nước chảy ừng ực vào bụng mụ ta và mực nước sông cạn dần. Một lát sau, DiRô quay nhìn lại, chú thấy nước sông cạn đến một nửa; rồi một lát sau, chú nhìn lại đã thấy dòng sông bây giờ chỉ còn là một rãnh nước, và sau đó, nước trong rãnh cũng biến mất vào trong bụng Dạ xoa.
Mụ ta lại đuổi tiếp, nhưng đã chạy chậm hơn, vì người mụ ướt mèm lại phải đưa hai tay ôm lấy cái bụng đầy nước mà chạy. Rồi Dạ soa chạy nhanh dần lên vì nước trào ra khỏi mõm mụ ào ào. Nhưng cho dù mụ có chạy chậm hơn trước, so với DiRô, mụ ta cũng chạy nhanh hơn chú nhiều, và chú chạy càng lúc càng chậm hơn. Chú chạy rẽ qua rẽ lại trên ruộng lúa, để Dạ xoa phải dừng một chút khi rẽ theo, vì cái bụng của mụ đầy nước nên cho quay qua trở về để đổi hướng hơi khó khăn. Nhưng chiến thuật này cũng không mang lại kết quả tốt cho DiRô, vì cuối cùng chú cũng nghe tiếng thở hổn hển và tiếng gầm gừ của quỷ Dạ xoa gần sau lưng. Lập tức chú lấy cuộn kinh thứ ba và ném ra sau lưng mình. Lập tức, ngay chỗ ấy hiện ra một cái hố lửa. Lửa nhảy nhót, bập bùng, dâng cao lên, chặn mụ quỷ Dạ xoa lại.
DiRô thở phào nhẹ nhõm, cố chạy nhanh hơn, vì chú đã thấy xa xa thấp thoáng những mái nhà của ngôi làng rồi. Chú ráng sức mà chạy, nhưng khi lên đến đỉnh một ngọn đồi, chú nghe phía sau có tiếng khả nghi quá. Chú bèn quay lại nhìn và thấy một đám hơi nước như mây trút xuống hố lửa rồi lửa tắt dần. Mụ Dạ xoa đứng gần bên lò lửa, ép mạnh tay vào bụng. Tức thì từ hai hốc mũi phun ra hai vòi nước, và từ miệng phun ra một thác nước nữa, nước làm lửa tắt dần dần cho dần hết.
DiRô không chờ xem lửa tắt hết, chú chạy nhanh xuống đồi. Thế nhưng, chẳng mấy chốc con quỷ Dạ xoa lại đến kịp phía sau chú, nó toát mồ hôi và đen thui vì khói. Mụ dương móng vuốt ra, chưa kịp thộp lấy chú thì chú vội lấy ra cuộn kinh cuối cùng và ném ra phía sau.
Cuộn kinh vừa chạm đất, tức thì một luồng sáng màu bạc lóe lên, rồi trước mặt mụ hiện ra một núi gươm, lưỡi gươm nào cũng sáng loáng.
“Chướng ngại như thế này thì đố ai vượt qua, ngay cả quỷ Dạ xoa cũng chịu thôi”, DiRô tự nói với mình, nhưng để đảm bảo hơn, chú vẫn không chậm bước, và sau đó chú thấy không xa trước mặt là ngôi chùa nhỏ màu xám nằm bên hồ, hiện ra lờ mờ trong làn sương sớm. Chạy được nửa đoạn đường từ chỗ có núi gươm đến chùa, thì bỗng chú lại nghe phía sau có tiếng kêu lích kích rất rùng rợn, hòa theo tiếng kêu ấy là tiến gầm gừ, la hét. Mụ dạ xoa quyết ăn tươi nuốt sống chú bé cho được, nên mụ không ngại tấn công luôn cả ngọn núi gươm. Mụ nắm những thanh gươm, bẻ gãy, nhổ lên vứt đi như nhổ cỏ. Nhiều lần mụ đứt tay rách thịt, nhưng cuối cùng mụ cũng dọn được một con đường băng qua núi.
Trong khi đó, DiRô đã đến được bên ngôi chùa mà chú đã từ giã hôm qua. Ngôi chùa đang im lìm say ngủ, chú đấm thình thịch vào cửa chùa nơi có vị sư già đang ở. Nhưng vị sư già hình như đang ngủ say, vì không có động tịnh gì hết. Trái lại, chú nghe xa xa phía sau có tiếng thở hồng hộc và tiếng gầm gừ của con quỷ dạ xoa. DiRô cố sức đấm mạnh vào cửa chùa và la lớn.
– Thầy ơi, thầy khả kính ơi.
Cuối cùng chú nghe bên trong có tiếng động đậy rồi có tiếng ngái ngủ hỏi vọng ra.
Cái gì thế?
Thầy khả kính ơi, thầy, thầy cho con vào với! -DiRô kêu cứu, vừa quay mắt nhìn lui. Trong làn sương mai đang tan dần, quỷ Dạ xoa đang dữ dằn đến gần, áo quần xơ xác, tóc tai cháy xém, nhưng cặp mắt đỏ như lửa vẫn rùng rợn và cái lưỡi khổng lồ thèm thuồng vẫn đỏ rực trông rất gớm ghiếc.
Chú nghe nhà sư bên trong ngáp rồi trả lời:
Con đấy hả, DiRô? Con muốn gì? Không phải hôm qua ta đã cho con về nhà rồi kia mà? Con biết rõ là không thể trở thành sư được kia mà.
Con van thầy, xin thấy tha thứ, mở cửa cho con vào gấp, quỷ dạ xoa đuổi theo đến gần con rồi. – DiRô đáp to, chú quá sợ, sắp mất hết cả tinh thần.
Ăn nói gì mà ngốc thế! Quỷ dạ xoa xuất hiện ở vùng phụ cận khi nào? Hãy ngoan mà về nhà đi, ta không cần con đâu!
Thưa thầy, thưa thầy khả kính! Quỷ đã đến gần rồi, mau lên, cho con vào với! – DiRô van nài, chú đứng dán người vào cửa vì cặp mắt đỏ như lửa của dạ xoa đã sáng rực trên bờ hồ rồi, các móng vuốt sắc nhọn trên chân nó va vào đá sỏi trong sân chùa nghe lích kính thật rùng rợn.
Lời cầu xin khẩn thiết của chú bé đã làm cho nhà sư đổi ý, và ngay khi con quỷ sắp sửa vồ lấy DiRô, thì nhà sư đẩy chốt cửa mở ra. DiRô nhào vào qua ngưỡng cửa, cái lưỡi dài của quỷ dạ xoa thè theo chú, con quỷ quyết không để cho bất cứ con mồi nào thoát khỏi tay nó. Nhưng nhà sư đã đóng sập cửa lại. Một tiếng thét vang lên thất thanh trong không trung, và quỷ dạ xoa biến mất.
Tất cả đều như trước. Mặt trời từ từ lên cao, ánh nắng chiếu tràn ngập căn phòng, nhà sư khả kính vuốt ve đầu DiRô, ông nói với chú rằng ông muốn thử thách DiRô thêm lần nữa. Và không bao giờ ông ân hận vì quyết định này. Kể từ hôm ấy, DiRô trở nên cần mẫn, không ai có thể dẫn chú vào rừng được, ngay cả hương thơm ngào ngạt nhất của rừng cũng không lôi cuốn được chú.
Ngôi chùa nhỏ, nghèo nhất trong vùng, và nhà sư khả kính ở đây sống không được sung túc gì lắm. Thế nhưng ông muốn giúp bố mẹ của DiRô, mặt khác, ông ta cũng đã già rồi, ông cần có người giúp đỡ việc lặt vặt trong chùa, đó là chưa kể ông phải nghĩ dần đến việc tìm người thay ông để trụ trì ngôi chùa này.
Thế là một hôm, chú bé DiRô cạo đầu, mặc áo chùng đen, vào chùa làm môn sinh. Ngôi nhà nhỏ xây bằng gỗ nằm tách ra khỏi làng một chút, gần cái hồ ở bìa rừng, muốn đến chùa, phải đi trên một con đường băng qua ruộng lúa chạy theo các đường đê trong ruộng. Ngôi chùa xưa cũ, mưa gió thường xuyên đã làm bạc màu các bức vách và gần như xóa hết hàng chữ trên cổng. DiRô rất thích cảnh chùa, nhưng hấp dẫn chú ta nhất là cánh rừng. Hễ rảnh việc được giây phút nào là chú chạy vào rừng, hái hoa thơm hay nằm lên trên cỏ, nhàn nhã đưa mắt nhìn trời qua đám cành cây rậm lá.
Vị sư khả kính là người rất mẫu mực, ông không bắt DiRô phải làm việc nhiều. Công việc của chú là đi lượm củi, xách nước, lau quét chùa, lau bụi bặm các tượng gỗ trong thánh thất và lau kinh điển trong thư phòng, rồi thỉnh thoảng giúp việc dưới bếp. Việc nghiêm trọng nhất là học tập. Không những DiRô thấy việc tập đọc tập viết là khó khăn mà việc học nhớ kinh điển cũng thật khó hiểu, mặc dù chú đã có thiện tâm, là điều rất khó cho chú, mà chú lại còn không thích việc học hành. Khi nhà sư giảng kinh hay muốn chú học thuộc kinh, thì chú không chịu nghe, nhưng khi ngồi học một mình, chú lại thích chạy vào rừng.
Nhà sư đã khuyên giải, la mắng, nhưng chẳng ăn thua gì. Cứ cầm cuốn kinh lên tay là DiRô lại nhìn cây cối ở bên ngoài, cây cối như gọi chú ra, chú cảm thấy cây cối như tỏa mùi thơm quyến rũ, chú lắng nghe chim chóc ca hót. Thế là đi đời việc học, chỉ đợi lúc thuận tiện là chú chuồn ra ngoài ngay.
Cả một mùa hè trôi qua như thế, nhà sư mất hết kiên nhẫn. Nhiều lần DiRô để quyển kinh trên cỏ, rồi thay vì học, chú chạy vào rừng.
Nhà sư chán nản thấy rằng không bao giờ DiRô thuộc nổi một câu kinh, cho nên nhân ngày đại lễ “cầu phúc” sắp đến, ông gọi chú bé lại và nói:
– Này con, ta rất buồn phải nói cho con rõ điều này: chắc con sẽ không trở thành nhà
sư tốt được đâu. Vì một nhà sư mà không biết lễ nghĩa và không thuộc kinh điển thì không ra gì hết, không giúp gì được cho người đời hết, mà chỉ là gánh nặng cho đạo hữu thôi. Nên ta định trả con về lại cho cha mẹ con, mặc dù làm thế ta rất đau lòng. Vậy con hãy trở về với gia đình đi, kẻo mất thì giờ.
Quyết định của nhà sư như sét đánh ngang tai DiRô, chú ta chảy nước mắt. Nếu không có việc học chán ngấy này, thì chắc chú rất muốn trở thành tu sĩ.
Nhà sư thấy chú bé bị xúc động mạnh cũng thương tình. Ông bèn lấy trong cái rương sơn mài ra bốn cuộn giấy, đưa cho DiRô và nói:
Ta không biết làm gì được cho con, nhưng để con hiểu là ta không giận, ta cho con bốn cuộn giấy này. Trên mỗi cuộn có vẽ hình ngôi chùa này và một đoạn kinh. Đấy là lời Phật dạy, những cuộn kinh sẽ giúp con khi lo buồn thất vọng. Hãy giữ những cuộn kinh này, và bây giờ thì con hãy đi đi.
DiRô không dám cãi lời nhà sư. Chú lấy bốn cuộn kinh bỏ vào dưới áo choàng, cúi người cám ơn nhà sư, rồi nước mắt dầm dề, chú bước ra cửa, lấy đôi dép rơm đi về. Lòng quá giao động, DiRô nghĩ: “Cha mẹ sẽ nói gì khi thình lình thấy mình quay về như thế này nhỉ?” – nghĩ thế, nước mắt chú lại tuôn ra như mưa.
Nhưng, vừa đi được vài bước, nghe tiếng lá cây xào xạc, ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt của hoa rừng, chú lại quên hết sầu muộn trong lòng. Rồi, thay vì đi về nhà, chú chạy vào rừng thân yêu. Vì bây giờ chú có vô số thì giờ để chơi, được mặc sức vào sâu trong rừng, đến những nơi mà trước đây chú chưa bao giờ để chân tới.
DiRô đuổi bướm thơm, rồi nấp sau bụi cây để nhìn một con thằn lằn nằm phơi nắng trên tảng đá, chú lắng tai nghe tiếng chim hót trên cành. Khi cảm thấy đã đến lúc phải tìm đường ra khỏi rừng, vì chú nghĩ chắc trời sắp trưa, thì bỗng nhiên trời tối sầm một cách thật lạ lùng, như thể sắp có giông bão vậy. Tất cả mọi âm thanh quanh chú đột nhiên im lặng hết, sự thay đổi đột ngột này làm cho chú run sợ.
Chú nhìn quanh và khó khăn lắm mới nhận ra được một khoảng trống trong rừng. Chú tự nhủ:
Chắc trời đã tối rồi? Ôi, ước gì ta gặp được người nào ở đằng kia.
Bỗng chú thấy ở bên kia khoảng trống có một bà già nhỏ nhắn, bà ta đang khập khiễng đi về phía chú. Chắc là bà đã già lắm rồi vì lưng bà khòm quá thấp. Trên đầu, bà đội cái mũ vải rộng, cái váy vá chằng vá đụp, quanh lưng thắt sợi dây lưng nhỏ xíu.
Bà già nhìn chú, toét miệng cười, hai hàm răng sún hết, bà nói:
Gặp được cháu ở đây thật may cho ta quá! Trông cái đầu trọc và cái áo chùng đen cháu mặc, ta biết ngay cháu là một chú tiểu. Trước sau gì rồi cháu cũng thành nhà sư. Ta thì già rồi, chân cẳng yếu, chắc không đi nổi ra tận chùa của nhà sư khả kính ở ngoài làng được. Hôm nay là ngày giỗ đầu của chồng ta, ta muốn nhờ nhà sư khả kính tụng kinh cầu nguyện cho vong linh ông ấy được siêu thoát. Nhưng bây giờ gặp được cháu ở đây, ta nhờ cháu đến tụng kinh cầu nguyện cho vong linh của ông ấy trước bàn thờ tại nhà ta. Chắc cháu không từ chối lời yêu cầu của một bà già khốn khổ như ta chứ.
DiRô phân vân không biết xứ sự ra sao. Chú rất sung sướng thoát khỏi cảnh một mình trơ trọi trong rừng âm u tối tăm như thế này. Nhưng còn việc tụng kinh cầu nguyện thì sao? Chú có nên thưa thật là mình không biết tụng kinh cầu nguyện không? Không thể nói cho bà già hay là chú không biết tụng kinh. Vì nếu có thú thật thì chắc bà ta sẽ nghĩ là chú thoái thác thôi. Cho nên chú bằng lòng chấp nhận đi theo bà qua khoảng trống trong rừng, đến một cái chòi nhỏ, mà lạ lùng thay là mới trước đây, chú không thấy gì cả. Cái chòi rất nhỏ đến nỗi hai người đi vào là đã thấy chật rồi. Chú thấy trong một góc nhà, có tấm ván đóng vào vách dùng làm bàn thờ, và trong góc kia là bếp lửa của chủ nhà. DiRô quì xuống trước bàn thờ, chú nhớ lại tất cả những gì chú còn nhớ trong các buổi lễ cầu nguyện trước đây ở chùa. Chú tụng kinh cầu nguyện cho vong hồn của người chết, rồi khó khăn lắm chú mới tụng kinh được, chữ được chữ mất. Chú toát mồ hôi hột và mặt mày đỏ gay, nhưng bà già thì lại lắng tai nghe rất chăm chú. Trông bà có vẻ rất hài lòng về buổi cầu nguyện này. Khi DiRô tụng kinh cầu nguyện xong, bà già cúi đầu, nói:
Cậu thật tốt. Tôi thành thật cám ơn cậu. Chắc ông chồng của tôi rất mãn nguyện vì cảm thấy không bị quên lãng. Nhưng bây giờ thì trời đã tối mà đường về làng thì xa, cậu sẽ dễ bị lạc lắm. Hãy ngủ lại đêm ở đây đi. Tôi chẳng có gì để mời cậu ngoài cháo lúa mạch, nhưng tôi nghĩ cậu sẽ thích cho mà xem.
DiRô quá đói cho nên chú ăn cháo lúa mạch thấy ngon thật. Ăn xong bà già dọn chỗ ngủ trên nền nhà- chỗ ngủ vừa đủ cho hai người- DiRô vừa nằm xuống là ngủ liền. Nhưng chú ngủ không ngon giấc, có lẽ vì chú ăn cháo quá nhiều, cũng có lẽ vì cái chòi thiếu không khí, cho nên dù cố gắng, nhưng chú cứ trăn qua trở lại hoài, thức lại ngủ, ngủ rồi lại thức, cho đến khi bỗng thình lình chú hoàn toàn tỉnh giấc. Chú quay người, bàn tay chạm phải chân một con thú. Rõ ràng là chú chạm phải đám lông và những cái vuốt. Nhờ ánh sáng lờ mờ của bếp lửa chiếu ra, chú thấy rõ cái chân, đúng là cái chân của bà già.
DiRô sợ đến nỗi tê liệt cả người, vì chú nghĩ chắc bà già không phải là người, mà có lẽ là một con cáo hay một con lửng đã tìm cách kéo chú vào hang để ăn thịt. Chú nghĩ phải tìm cách trốn thoát cho nhanh thôi. Chú cẩn thận, từ từ ngồi dậy. Nhưng khi chú định bước qua người bà già, bỗng bà thức dậy hỏi chú:
Này cháu, cháu đi đâu trong đêm tối thế này?
Thưa bà, cháu cần ra ngoài, -DiRô đáp, giọng rất tỉnh táo
Ngoài trời tối tăm. Cháu dễ bị lạc hay rơi xuống vực sâu, mà quanh nhà thì có rất nhiều vực. Để ta cột cháu vào sợi dây cho cháu khỏi lạc.
Bà già cột một sợi dây vào người DiRô rồi để chú ra ngoài. Khi DiRô vừa ra ngoài
khoảng trống, bà già liền kéo sợi dây và nói lớn:
Cháu đừng ở lâu nhé!
Dạ, dạ, cháu sẽ vào ngay, -DiRô đáp, vừa lo sợ nghĩ đến cách để đối phó với tình huống này. Bỗng chú nhớ đến những cuộn kinh mà nhà sư đã cho. Có lẽ những cuộn kinh này có thể giúp chú thoát khỏi cảnh nguy hiểm trước mắt.
-Trong lúc đó bà già lại kéo sợi dây và gọi chú.
Cháu vào đây, thưa bà, -DiRô đáp, vừa lần mở sợi dây ra và buộc sợi dây vào một cuộn kinh, rồi ba chân bốn cẳng chạy.
Chú chạy chưa xa thì bà già lại kéo sợi dây và gọi tiếp. Huyền diệu làm sao, cuộn kinh có sức nặng trì lại, như thể chính DiRô đang bị buộc vào sợi dây, và bắt chước giọng chú trả lời: “Cháu vào đây, thưa bà?” -DiRô mừng thầm, chú chạy tiếp.
Cứ mỗi lần bà già giật sợi dây thì lại nghe DiRô đáp: “Cháu vào đây, thưa bà!”, nghe mãi một hồi lâu mà vẫn không thấy chú bé vào bà già nổi giận. Bà bèn ngồi dậy ra xem thử chú bé làm gì ở ngoài mà lâu thế.
Khi thấy chú bé đã biến mất, bà già tức giận dẫm nát cuộn giấy rồi đánh hơi dưới đất để xem chú đi hướng nào. Tìm được phương hướng rồi, bà ta liền đuổi theo chú bé, bà ta chạy rất nhanh như luồng gió thổi mạnh qua rừng.
Trong đêm tối, DiRô chạy chưa được bao xa thì bỗng chú nghe phía sau có tiếng thở và tiếng gầm gừ thật ghê rợn. Chú quay lại, và hoảng hồn gần muốn xỉu. Phía sau chú, không phải là bà già đi khập khiễng, mà là mụ quỷ dạ xoa (YaMamba), mụ quỷ ác độc khét tiếng trong rừng. Lỗ mũi với hai cái hốc to khủng khiếp, hai con mắt đầy gân máu nẩy lửa long sòng sọc như hai ngọn đèn, còn cái mõm thì rất ghê gớm, cái lưỡi dài thè ra ngoài, đỏ rực dài đến tận thắt lưng, mái tóc xám bay phất phơ trong gió như cái bờm ngựa. Hai cánh tay xương xẩu dài thòng, móng vuốt trông rất ghê tởm, còn hai bàn chân đầy lông lá, như DiRô đã thấy ở trong lều, nện xuống đất thình thịch. DiRô chạy một bước thì quỷ dạ xoa đã nhảy hai bước khổng lồ, cho nên chẳng mấy chốc mà quỷ đến gần chú bé, nó vươn hai bàn tay đầy vuốt nhọn ra. DiRô quá sợ, bèn lấy cuộn kinh thứ hai và ném xuống dưới chân dạ xoa.
Lập tức một con sông hiện ra giữa DiRô và Dạ xoa, dòng sông nổi sóng cuồn cuộn ngăn đôi họ ra. DiRô thở phào, thừa cơ hội này, vội vàng chạy ra khỏi rừng, và trời cũng bắt đầu sáng, chú tiếp tục chạy vào con đường băng qua ruộng lúa.
Khi Dạ xoa thấy mình bị dòng sông dậy sóng ngăn lại bên này, bên kia bờ DiRô đang cố sức chạy, mụ ta bèn hét lên một cách giận dữ và giậm chân xuống đất thình thịch. Nhưng rồi mụ ta bình tĩnh lại ngay, mụ xắn cao hai tay áo, cúi người xuống thò mõm uống nước sông. Nước chảy ừng ực vào bụng mụ ta và mực nước sông cạn dần. Một lát sau, DiRô quay nhìn lại, chú thấy nước sông cạn đến một nửa; rồi một lát sau, chú nhìn lại đã thấy dòng sông bây giờ chỉ còn là một rãnh nước, và sau đó, nước trong rãnh cũng biến mất vào trong bụng Dạ xoa.
Mụ ta lại đuổi tiếp, nhưng đã chạy chậm hơn, vì người mụ ướt mèm lại phải đưa hai tay ôm lấy cái bụng đầy nước mà chạy. Rồi Dạ soa chạy nhanh dần lên vì nước trào ra khỏi mõm mụ ào ào. Nhưng cho dù mụ có chạy chậm hơn trước, so với DiRô, mụ ta cũng chạy nhanh hơn chú nhiều, và chú chạy càng lúc càng chậm hơn. Chú chạy rẽ qua rẽ lại trên ruộng lúa, để Dạ xoa phải dừng một chút khi rẽ theo, vì cái bụng của mụ đầy nước nên cho quay qua trở về để đổi hướng hơi khó khăn. Nhưng chiến thuật này cũng không mang lại kết quả tốt cho DiRô, vì cuối cùng chú cũng nghe tiếng thở hổn hển và tiếng gầm gừ của quỷ Dạ xoa gần sau lưng. Lập tức chú lấy cuộn kinh thứ ba và ném ra sau lưng mình. Lập tức, ngay chỗ ấy hiện ra một cái hố lửa. Lửa nhảy nhót, bập bùng, dâng cao lên, chặn mụ quỷ Dạ xoa lại.
DiRô thở phào nhẹ nhõm, cố chạy nhanh hơn, vì chú đã thấy xa xa thấp thoáng những mái nhà của ngôi làng rồi. Chú ráng sức mà chạy, nhưng khi lên đến đỉnh một ngọn đồi, chú nghe phía sau có tiếng khả nghi quá. Chú bèn quay lại nhìn và thấy một đám hơi nước như mây trút xuống hố lửa rồi lửa tắt dần. Mụ Dạ xoa đứng gần bên lò lửa, ép mạnh tay vào bụng. Tức thì từ hai hốc mũi phun ra hai vòi nước, và từ miệng phun ra một thác nước nữa, nước làm lửa tắt dần dần cho dần hết.
DiRô không chờ xem lửa tắt hết, chú chạy nhanh xuống đồi. Thế nhưng, chẳng mấy chốc con quỷ Dạ xoa lại đến kịp phía sau chú, nó toát mồ hôi và đen thui vì khói. Mụ dương móng vuốt ra, chưa kịp thộp lấy chú thì chú vội lấy ra cuộn kinh cuối cùng và ném ra phía sau.
Cuộn kinh vừa chạm đất, tức thì một luồng sáng màu bạc lóe lên, rồi trước mặt mụ hiện ra một núi gươm, lưỡi gươm nào cũng sáng loáng.
“Chướng ngại như thế này thì đố ai vượt qua, ngay cả quỷ Dạ xoa cũng chịu thôi”, DiRô tự nói với mình, nhưng để đảm bảo hơn, chú vẫn không chậm bước, và sau đó chú thấy không xa trước mặt là ngôi chùa nhỏ màu xám nằm bên hồ, hiện ra lờ mờ trong làn sương sớm. Chạy được nửa đoạn đường từ chỗ có núi gươm đến chùa, thì bỗng chú lại nghe phía sau có tiếng kêu lích kích rất rùng rợn, hòa theo tiếng kêu ấy là tiến gầm gừ, la hét. Mụ dạ xoa quyết ăn tươi nuốt sống chú bé cho được, nên mụ không ngại tấn công luôn cả ngọn núi gươm. Mụ nắm những thanh gươm, bẻ gãy, nhổ lên vứt đi như nhổ cỏ. Nhiều lần mụ đứt tay rách thịt, nhưng cuối cùng mụ cũng dọn được một con đường băng qua núi.
Trong khi đó, DiRô đã đến được bên ngôi chùa mà chú đã từ giã hôm qua. Ngôi chùa đang im lìm say ngủ, chú đấm thình thịch vào cửa chùa nơi có vị sư già đang ở. Nhưng vị sư già hình như đang ngủ say, vì không có động tịnh gì hết. Trái lại, chú nghe xa xa phía sau có tiếng thở hồng hộc và tiếng gầm gừ của con quỷ dạ xoa. DiRô cố sức đấm mạnh vào cửa chùa và la lớn.
– Thầy ơi, thầy khả kính ơi.
Cuối cùng chú nghe bên trong có tiếng động đậy rồi có tiếng ngái ngủ hỏi vọng ra.
Cái gì thế?
Thầy khả kính ơi, thầy, thầy cho con vào với! -DiRô kêu cứu, vừa quay mắt nhìn lui. Trong làn sương mai đang tan dần, quỷ Dạ xoa đang dữ dằn đến gần, áo quần xơ xác, tóc tai cháy xém, nhưng cặp mắt đỏ như lửa vẫn rùng rợn và cái lưỡi khổng lồ thèm thuồng vẫn đỏ rực trông rất gớm ghiếc.
Chú nghe nhà sư bên trong ngáp rồi trả lời:
Con đấy hả, DiRô? Con muốn gì? Không phải hôm qua ta đã cho con về nhà rồi kia mà? Con biết rõ là không thể trở thành sư được kia mà.
Con van thầy, xin thấy tha thứ, mở cửa cho con vào gấp, quỷ dạ xoa đuổi theo đến gần con rồi. – DiRô đáp to, chú quá sợ, sắp mất hết cả tinh thần.
Ăn nói gì mà ngốc thế! Quỷ dạ xoa xuất hiện ở vùng phụ cận khi nào? Hãy ngoan mà về nhà đi, ta không cần con đâu!
Thưa thầy, thưa thầy khả kính! Quỷ đã đến gần rồi, mau lên, cho con vào với! – DiRô van nài, chú đứng dán người vào cửa vì cặp mắt đỏ như lửa của dạ xoa đã sáng rực trên bờ hồ rồi, các móng vuốt sắc nhọn trên chân nó va vào đá sỏi trong sân chùa nghe lích kính thật rùng rợn.
Lời cầu xin khẩn thiết của chú bé đã làm cho nhà sư đổi ý, và ngay khi con quỷ sắp sửa vồ lấy DiRô, thì nhà sư đẩy chốt cửa mở ra. DiRô nhào vào qua ngưỡng cửa, cái lưỡi dài của quỷ dạ xoa thè theo chú, con quỷ quyết không để cho bất cứ con mồi nào thoát khỏi tay nó. Nhưng nhà sư đã đóng sập cửa lại. Một tiếng thét vang lên thất thanh trong không trung, và quỷ dạ xoa biến mất.
Tất cả đều như trước. Mặt trời từ từ lên cao, ánh nắng chiếu tràn ngập căn phòng, nhà sư khả kính vuốt ve đầu DiRô, ông nói với chú rằng ông muốn thử thách DiRô thêm lần nữa. Và không bao giờ ông ân hận vì quyết định này. Kể từ hôm ấy, DiRô trở nên cần mẫn, không ai có thể dẫn chú vào rừng được, ngay cả hương thơm ngào ngạt nhất của rừng cũng không lôi cuốn được chú.
NGÔI NHÀ ĐẶC BIỆT - SUY NGHĨ KHÁC BIỆT
Bình luận
Tweet